Trung Cổ Lịch_sử_châu_Âu

Bài chi tiết: Trung Cổ
Xem thêm thông tin: Nhân khẩu Trung Cổ

Thời Trung Cổ thường được cho là bắt đầu từ sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã (hay bởi một số học giả, trước đó) ở thế kỷ thứ 5 tới sự khởi đầu của Thời kỳ tiền hiện đại ở thế kỷ 16, đánh dấu sự trỗi dậy của các quốc gia, sự phân chia của phương Tây Kitô giáo trong Cải cách, sự nổi lên của chủ nghĩa nhân văn trong thời kỳ Phục hưng Ý, và những sự khởi đầu mở rộng vượt biển dẫn tới Columbian Exchange.[23]

Thời Trung Cổ chứng kiến cuộc đô thị hoá bền vững đầu tiên ở bắc và tây Âu. Nhiều nhà nước châu Âu hiện đại có nguồn gốc từ các sự kiện xảy ra trong thời Trung Cổ; các biên giới chính trị châu Âu hiện đại, ở nhiều khía cạnh, là kết quả của các thành tựu quân sự và triều đại trong giai đoạn hỗn loạn này.

Giai đoạn đầu Trung Cổ

Giai đoạn đầu Trung Cổ trải dài khoảng năm thế kỷ từ năm 500 tới năm 1000.[24] Trong giai đoạn này, đa phần châu Âu đã theo Kitô giáo, và "Những thời kỳ Đen tối" tiếp sau sự sụp đổ của thành Rô-ma diễn ra. Sự thành lập Đế chế Frank ở thế kỷ thứ 9 dẫn tới sự nổi lên của Phục hưng Carolingian trên lục địa. châu Âu vẫn là một vùng lạc hậu so với sự trỗi dậy của Thế giới Hồi giáo, với mạng lưới thương mại vượt sa mạc rộng lớn của nó, hay Ấn Độ với Thời kỳ Vàng son thời Đế chế Gupta và người Pratiharas hay Trung Quốc, ở thời ấy là đế chế đông dân nhất thế giới thời kỳ Nhà Tống. Tới năm 1000 Công Nguyên, Constantinopolis có dân số khoảng 300,000 người, nhưng Rô-ma chỉ có 35,000 và Paris 20,000. Đạo Hồi đã có hơn mười thành phố lớn trải dài từ Córdoba, Tây Ban Nha, ở thời ấy là thành phố lớn nhất thế giới với 450,000 dân, cho tới Trung Á.

Một đốm sáng Đông La Mã

Constantine IJustinian I bày tỏ lòng trung thành với Đức mẹ đồng trinh Mary bên trong Hagia Sophia

Nhiều người coi Hoàng đế Constantine I (trị vì 306–337) là "Hoàng đế Byzantine" đầu tiên. Vào năm 324, chính ông đã tiến hành dời đô từ Nicomedia tới Byzantium, được xây dựng lại với tên gọi là Constantinopolis, hay Nova Roma ("Tân La Mã").[25] Chính thành phố Rô-ma không phải là kinh đô từ thời cai trị của Hoàng đế Diocletian. Một số người xác định sự khởi đầu của Đế chế là sự cai trị của Hoàng đế Theodosius I (379–395) và sự thay thế chính thức của Kitô giáo cho tôn giáo ngoại giáo La Mã, hay sau khi ông chết năm 395, khi sự phân chia chính trị giữa Đông và Tây trở nên rõ ràng. Những người khác cho nó xảy ra muộn hơn năm 476, khi Romulus Augustulus, trong truyền thống được coi là vị Hoàng đế phương tây cuối cùng, bị hạ bệ, vì thế để lại chính quyền đế quốc duy nhất với hoàng đế ở Đông Ai Cập. Những người khác chỉ ra sự tái lập đế chế thời Heraclius (khoảng năm 620) khi các tên hiệu La tinh và việc sử dụng nó được chính thức thay thế bằng tiếng Hy Lạp. Trong bất kỳ trường hợp nào, sự Hy Lạp hóa và sự Kitô giáo hoá đã trên đường phát triển. Đế chế nói chung được coi như đã chấm dứt sau sự sụp đổ của Constantinopolis trước Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ năm 1453.Plague Justinian là một bệnh dịch ảnh hưởng tới Đế quốc Đông La Mã, gồm cả kinh đô Constantinopolis, trong những năm 541–542. Ước tính Plague of Justinian đã giết khoảng 100 triệu người trên khắp thế giới.[26][27] Nó khiến dân số châu Âu giảm khoảng 50% trong giai đoạn 541 và 700.[28] Có thể nó cũng góp phần vào thắng lợi của những cuộc chinh phục Ả Rập.[29][30]

Phong kiến Kitô giáo

Năm 814, Đế quốc Frank đạt tới đỉnh điểm, như Đế quốc Đông La Mã từng có trước cuộc chinh phục của người Hồi giáoGiáo hoàng Hadrianus I yêu cầu Charlemagne, Vua của người Frank giúp đỡ chống cuộc xâm lược năm 772

Đế quốc La Mã Thần thánh xuất hiện khoảng năm 800, khi Charlemagne, vua của người Frank, được Giáo hoàng phong làm Hoàng đế. Đế chế của ông dựa trên Pháp, Các quốc gia vùng thấpĐức hiện đại trải dài tới Hungary, Ý, Bohemia, Hạ SachsenTây Ban Nha. Ông và cha mình nhận được sự giúp đỡ liên tục từ một liên minh với Giáo hoàng, người muốn giúp ông chống lại người Lombard. Giáo hoàng phụ thuộc chính thức vào Đế chế Đông La Mã, nhưng Hoàng đế Đông La Mã không làm gì (khi có thể) để chống lại người Lombard.

Ở phía đông Bulgaria được thành lập năm 681 và trở thành quốc gia Slavơ đầu tiên. Đế chế Bulgaria hùng mạnh là đối thủ chính của Đế quốc Đông La Mã trong việc kiểm soát vùng Balkan trong nhiều thế kỷ và từ thế kỷ thứ 9 trở thành trung tâm của châu Âu Slavơ. Hai nhà nước, Đại MoraviaKievan Rus', xuất hiện ở phía Tây và Đông Slav ở thế kỷ thứ 9. Trong thế kỷ thứ 9 và thứ 10, bắc và tây Âu nằm dưới quyền của giới quý tộc và ảnh hưởng của người Viking, tiến hành cướp phá, buôn bán, chinh phục và định cư nhanh chóng và hiệu quả với những con tàu biển của họ. Cuộc Hungary tàn phá lục địa châu Âu, người Pecheneg cướp bóc phía tây và người Ả Rập ở phía nam châu Âu. Trong thế kỷ thứ 10 các vương quốc độc lập được thành lập ở Trung Âu, ví dụ, Ba LanVương quốc Hungary. Người Hungary đã dừng các chiến dịch tàn phá của mình; các quốc gia đáng chú ý còn có CroatiaSerbiaBalkan. Giai đoạn sau đó, chấm dứt khoảng năm 1000, chứng kiến sự phát triển thêm nữa của chế độ phong kiến, làm suy yếu Đế quốc La Mã Thần thánh.

Giai đoạn giữa Trung Cổ

Năm 1097, khi cuộc Thập tự chinh thứ nhất tới đất thánh bắt đầu

Giấc ngủ sâu của Thời kỳ đen tối bị tác động bởi cuộc khủng hoảng mới trong Giáo hội. Vào năm 1054, một cuộc Đại Ly giáo không thể hòa giải giữa hai Tòa còn lại của Kitô giáo tại thành Rô-mathành Constantinopolis.

Thời kỳ trung Trung cổ ở thế kỷ 11, 12 và 13 cho thấy thể hiện một sự gia tăng dân số nhanh chóng tại châu Âu, đưa lại sự thay đổi chính trị và xã hội to lớn so với thời kỳ trước. Tới năm 1250, dân số tăng mạnh đã thúc đẩy nền kinh tế, đạt đến những mức độ không thể đạt được mãi tới thế kỷ 19.Từ khoảng năm 1000 trở về sau, Tây Âu chứng kiến cuộc xâm lược cuối cùng của các rợ và trở nên được tổ chức tốt hơn về chính trị. Người Viking đã định cư trên Đảo Anh, Pháp và những nơi khác, trong khi các vương quốc Kitô giáo Na Uy đang phát triển trên vùng đất Scandinavia của họ. Người Magyars đã dừng mở rộng ở thế kỷ thứ 10, và tới năm 1000, một Vương quốc Hungary Kitô giáo đã được công nhận ở Trung Âu. Với một ngoại lệ ngắn với các cuộc xâm lược của quân Mông Cổ, các cuộc cướp phá lớn của các rợ chấm dứt.

Trong thế kỷ 11, dân số bắc dãy An-pơ bắt đầu chiếm các vùng đất mới, một số họ đã quay trở lại tình trạng man tộc sau sự kết thúc của Đế chế La Mã. Trong cái ngày nay gọi là "cuộc phát quang vĩ đại," những cánh rừng và đầm lầy lớn ở châu Âu bị triệt hạ để trồng cấy. Cùng lúc ấy các khu định cư đã di chuyển từ các biên giới truyền thống của Đế quốc Frank tới các biên giới mới ở đông Âu, vượt qua Sông Elbe, mở rộng gấp ba lần diện tích nước Đức trong quá trình đó. Các chiến binh thập tự chinh đã thành lập các thuộc địa châu Âu tại Miền cận đông, đa số Bán đảo Iberian đã bị chinh phục từ khi người Moor, và người Norman định cư ở niền nam Ý, toàn bộ các thành phần dân số chính gia tăng và mô hình tái định cư.

Thời kỳ trung Trung Cổ tạo ra nhiều hình thức trí tuệ, tinh thần và tác phẩm nghệ thuật khác nhau. Thời kỳ này chứng kiến sự trỗi dậy của các thành bang quốc gia hiện đại ở Tây Âu và sự đi lên của các đại thành bang Ý. Giáo hội La Mã vẫn còn hùng mạnh kêu gọi các quân đội trên khắp châu Âu tham gia vào một loạt cuộc Thập tự chinh chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk, những người đã xâm chiếm vùng Đất thánh. Sự tái phát hiện các tác phẩm của Aristotle khiến Thomas Aquinas và các nhà tư tưởng khác phát triển Triết học kinh viện. Trong kiến trúc, đa số các thánh đường Gothic được xây dựng hay hoàn thành trong giai đoạn này.

Một Giáo hội chia rẽ

Thảm Bayeux thể hiện Trận Hastings và các sự kiện dẫn tới nó.

Cuộc "đại ly giáo" giữa các Giáo hội: (Công giáo) Tây phương và (Chính thống giáo) Đông phương xảy ra năm 1054 bởi Giáo hoàng Leo IX đòi thẩm quyền trên ba Tòa khác của Pentarchy (ngũ đại tòa), là Antiochia, JerusalemAlexandria. Từ giữa thế kỷ thứ 8, các biên giới của Đế chế Đông La Mã đã bị đẩy lùi sau các cuộc mở rộng của Hồi giáo. Antioch trở lại thuộc sự quản lý của Đông La Mã năm 1045, nhưng sự hồi sinh quyền lực của các vị vua thừ kế La Mã ở phía Tây cũng lên tiếng đòi quyền lợi và trách nhiệm cho những ghế đã mất ở châu Á và châu Phi. Giáo hoàng Leo còn gây ra một cuộc tranh cãi thêm nữa khi bảo vệ mênh đề filioque trong bản Tín điều Nicea mà phương Tây đã thông qua theo lẽ thường. Giáo hội Chính thống giáo ngày nay nói rằng Điều thứ 28 của Công đồng Chalcedon đã tuyên bố dứt khoát về sự bình đẳng giữa Giám mục thành Rô-ma và thành Constantinopolis. Chính thống giáo cũng nói rằng giám mục Rô-ma chỉ có quyền với giáo phận của mình và không có quyền ở bên ngoài. Tuy nhiên cũng có những xúc tác khác kém quan trọng hơn dẫn tới sự phân ly, gồm sự mâu thuẫn về nghi thức phụng vụ. Sự phân ly của Công giáo RômaChính Thống giáo Đông phương dẫn tới nhiều thế kỷ bất hòa giữa thế giới La tinh và thế giới Hy Lạp.

Những thay đổi nữa cũng diễn ra với một sự tái phân chia quyền lực ở châu Âu. William Nhà chinh phục, một Quận công xứ Normandie xâm lược Anh năm 1066. Cuộc Chinh phục của người Norman là một sự kiện chủ chốt trong Lịch sử Anh vì nhiều nguyên do. Sự kiện này làm nước Anh liên kết chặt chẽ hơn với lục địa châu Âu qua sự áp dụng kiểu chế độ quý tộc Norman, vì thế làm giảm ảnh hưởng từ Scandinavia. Nó tạo ra một trong những vương triều mạnh nhất ở châu Âu và mang lại một hệ thống chính phủ tinh vi nhất. Hơn nữa, là một hòn đảo, nước Anh có điều kiện phát triển một lực lượng hải quân và các quan hệ thương mại mạnh sẽ là cơ sở để thiết lập một vùng ảnh hưởng lớn trên thế giới gồm Ấn Độ, Úc, New Zealand, Canada và nhiều điểm hàng hải chiến lược khác như Bermuda, Suez, Hồng Kông và đặc biệt Gibraltar. Các lợi thế chiến lược này lớn mạnh và mang tính quyết định tới tận sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Các cuộc chiến tranh tôn giáo

A mitred Adhémar de Monteil mang theo Cây thương thần thánh trong một trong những trận đánh của Cuộc thập tự chinh thứ nhất

Sau cuộc ly giáo Đông-Tây, Kitô giáo Tây phương được các vương quốc mới thành lập ở Trung Âu: Ba Lan, HungaryBohemia chấp nhận. Giáo hội Công giáo Rôma đã phát triển như một quyền lực lớn, dẫn tới những cuộc xung đột giữa Giáo hoàng và Hoàng đế. Năm 1129, Giáo hội Công giáo Rôma thành lập một Toà án dị giáo để kiểm soát Công giáo châu Âu phía tây bằng vũ lực. Toà án dị giáo kết tội những người thực hiện nghi thức dị giáo để giúp họ ăn năn. Nếu không thể làm như vậy, hình phạt sẽ là tử hình. Trong thời gian này nhiều Lãnh chúa và Quý tộc điều khiển giáo hội. Các tu sỹ của tu viện Cluny đã rất cố gắng để bảo vệ một giáo hội nơi các Lãnh chúa hay Quý tộc không có quyền can thiệp. Họ đã thành công. Giáo hoàng Gregory VII tiếp tục công việc của các tu sỹ với hai mục đích chính, đưa giáo hội khỏi tầm kiểm soát của các vị vua và quý tộc và tăng cường quyền lực của giáo hoàng. Vùng ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma đã mở rộng rất nhiều khi các vị vua ngoại giáo cải đạo (Scandinavia, Litva, Ba Lan, Hungary), cuộc tái chinh phục (Reconquista) xứ Al-Andalus của người Kitô giáo, và các cuộc Thập tự chinh. Ở thế kỷ 15 hầu hết châu Âu đều theo Giáo hội Công giáo Rôma.

Những dấu hiệu đầu tiên về sự tái xuất hiện của văn minh tại Tây Âu bắt đầu xuất hiện ở thế kỷ 11 khi thương mại hoạt động trở lại ở Ý, dẫn tới tăng trưởng kinh tế và văn hóa của các thành bang độc lập như VeneziaFirenze; cùng thời điểm ấy, các thành bang bắt đầu hình thành ở các nơi như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha, dù quá trình hình thành của chúng (thường bị đánh dấu bởi sự đối đầu giữa các chế độ quân chủ, các lãnh chúa quý tộc phong kiến và giáo hội) thực tế mất nhiều thế kỷ. Các thành bang mới bắt đầu sử dụng ngôn ngữ viết riêng của mình, thay vì tiếng La tinh truyền thống. Các nhân vật đáng chú ý của phong trào này gồm Dante Alighieri và Christine de Pisan (tên khi sinh Christina da Pizzano), Dante sáng tác bằng tiếng Ý, còn Christine de Pisan dù là một người Ý (Venezia) ông định cư ở Pháp và viết bằng tiếng Pháp.(Xem Tái chinh phạt về hai quốc gia này.) Mặt khác, Đế chế La Mã Thần thánh, chủ yếu tại ĐứcÝ, tiếp tục bị tan rã thành vô số nhà nước phong kiến hay thành bang nhỏ, và sự thần phục của họ với hoàng đế chỉ mang tính danh nghĩa.

Thế kỷ 13 và 14, khi Đế chế Mông Cổ nổi lên, thường được gọi là Thời đại của người Mông Cổ. Quân đội Mông Cổ tiến về phía tây dưới sự chỉ huy của Hãn Bạt Đô. Các cuộc chinh phục phía tây của họ đã vượt qua hầu như toàn bộ Nga (ngoại trừ Novgorod, đã trở thành một chư hầu),[31] các vùng đất Kipchak, Hungary, và Ba Lan (vẫn còn là một quốc gia có chủ quyền). Lịch sử Mông Cổ ghi rằng Hãn Bạt Đô đã dự định chinh phục nốt các nước lớn ở châu Âu, bắt đầu bằng cuộc tấn công mùa đông vào Áo, ÝĐức, khi ông bị gọi quay trở về Mông Cổ sau khi Đại Hãn Oa Khát Đài qua đời. Đa số các nhà sử học tin rằng cái chết của ông đã ngăn chặn được cuộc chinh phục toàn bộ châu Âu[cần dẫn nguồn]. Ở Nga, người Mông Cổ của Kim Trướng Hãn quốc cai trị trong 250 năm.

Giai đoạn cuối Trung Cổ

Châu Âu năm 1400Châu Âu năm 1477

Thời kỳ cuối Thời kỳ Trung Cổ kéo dài trong thế kỷ 14 và 15. Khoảng năm 1300, những thế kỷ thịnh vượng và phát triển của châu Âu tạm ngừng. Một loạt nạn đói và bệnh dịch, như Nạn đói Lớn 1315–1317Tử thần Đen, theo một số ước tính đã làm giảm một nửa dân số. Cùng với nạn giảm dân số là sự bất ổn xã hội và chiến tranh địa phương. PhápAnh đều phải đối đầu với những cuộc nổi dậy nông dân nghiêm trọng: Jacquerie, Nổi dậy Nông dân, và cuộc Chiến tranh một trăm năm. Càng làm gia tăng các vấn đề của giai đoạn này, sự thống nhất của Giáo hội Công giáo bị ảnh hưởng bởi cuộc Ly giáo Tây phương. Những sự kiện này thỉnh thoảng được gọi là Khủng hoảng cuối Thời Trung Cổ.[32]

Dù có những khủng hoảng đó, thế kỷ 14 cũng là thời gian tiến bộ nhảy vọt trong khoa học và nghệ thuật. Một sự quan tâm mới tới các văn bản Hy LạpLa Mã dẫn tới cái sau này sẽ được gọi bằng thuật ngữ Phục hưng Ý. Tới cuối thời kỳ, một thời đại khám phá bắt đầu. Sự phát triển của Đế chế Ottoman, lên tới đỉnh điểm ở sự sụp đổ của Constantinopolis năm 1453, cắt đứt các đường thương mại với phương đông. Người châu Âu buộc phải tìm kiếm các con đường thương mại mới, như trường hợp chuyến đi của Columbus tới Châu Mỹ năm 1492, và chuyên đi vòng quanh Ấn ĐộChâu Phi của Vasco da Gama năm 1498.

Dịch hạch. "The Chronicles of Gilles Li Muisis" (1272-1352). Bibliothèque royale de Belgique, MS 13076-77, f. 24v.

Một trong những thảm họa lớn nhất tác động đến châu Âu là Tử thần Đen. Có nhiều vụ bùng phát, nhưng vụ nghiêm trọng nhất xảy ra giữa những năm 1300 và ước tính đã giết hại một phần ba dân số châu Âu.

Bắt đầu từ thế kỷ 14, Biển Baltic trở thành một trong những con đường thương mại quan trọng nhất. Liên minh Hanseatic, một liên minh của các thành phố thương mại, được khuyến khích với sự sáp nhập của các vùng rộng lớn của Ba Lan, Litvacác quốc gia vùng Baltic khác vào nền kinh tế châu Âu. Điều này giúp làm phát triển các quốc gia hùng mạnh ở Đông Âu gồm Litva, Ba Lan, Hungary, Bohemia, và Mát-xcơ-va. Sự chấm dứt quy ước của Thời kỳ Trung Cổ thường được gắn liền với sự sụp đổ của thành phố Constantinopolis và của Đế quốc Đông La Mã trước quân Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman năm 1453. Người Thổ biến thành phố này thành kinh đô của xứ Đế chế Ottoman của họ. Đế chế Ottoman tồn tại đến tận năm 1922 và cũng bao gồm Ai Cập, Syria và hầu hết vùng Balkan. Theo quan điểm của các nước Kitô giáo, hiểm họa đã đến từ quân Thổ Nhĩ Kỳ ngay từ khi họ mạnh lên và tiến quân về phía Tây.[33] Các cuộc chiến tranh Ottoman ở châu Âu, thỉnh thoảng cũng được gọi là các cuộc chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ, đánh dấu một phần quan trọng trong lịch sử đông nam châu Âu. Những cuộc chinh phạt này cũng khiến cho người Tây Âu, chẳng hạn như người Pháp, phải để tâm hơn đến Đông Âu.[33]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_châu_Âu http://historymedren.about.com/library/text/bltxtg... http://www.britannica.com/eb/article-58260/history... http://www.britannica.com/eb/article-9072150/Thirt... http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN019... http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN185... http://www.jimmyatkinson.com/papers/versaillestrea... http://www.justiniansflea.com/events.htm http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575057_13/s... http://www.worldhistoricalatlas.com http://dpalm.med.uth.tmc.edu/courses/BT2003/BTstud...